Phân tích nhân vật ông Hai - truyện ngắn Làng - Kim Lân
“Làng” của nhà văn Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc về chủ đề tình yêu quê hương đất nước của người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Nhân vật chính của tác phẩm - ông Hai – chẳng những là một người nông dân chất phác, hồn hậu như bao người nông dân khác mà còn là một người có tình yêu làng quê, đất nước thật đặc biệt.
“Làng” của nhà văn Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc về chủ đề tình yêu quê hương đất nước của người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Nhân vật chính của tác phẩm - ông Hai – chẳng những là một người nông dân chất phác, hồn hậu như bao người nông dân khác mà còn là một người có tình yêu làng quê, đất nước thật đặc biệt.
Tác phẩm ra đời năm 1948 lấy bối cảnh là cuộc tản cư kháng chiến
của nhân dân ông Hai là người dân làng Chợ Dầu nhưng để phục vụ kháng chiến ông
cùng gia đình tản cư đến một nơi khác. Chính tại nơi đây ông luôn trăn trở về
cái làng thân yêu của mình với bao tình cảm, suy nghĩ vô cùng cảm động...
Trước hết, ông là một người nông dân chất phác, nồng hậu, chân
chất... như bao người nông dân khác. Đến nơi tản cư mới, ông thường đến nhà
hàng xóm để cởi mở giãi bày những suy nghĩ tình cảm của mình về cái làng Chợ
Dầu thân yêu, về cuộc kháng chiến của dân tộc. Ông đi nghe báo, ông đi nghe nói
chuyện, ông bàn tán về những sự kiện nổi bật của cuộc kháng chiến... Ông Hai không
biết chữ, ông rất ghét những anh nào “ra vẻ ta đây” biết chữ đọc báo mà chỉ đọc
thầm không đọc to lên cho người khác còn biết. Ông ít học nhưng lại rất thích
nói chữ, đi đính chính tin làng mình theo giặc ông sung sướng nói to với mọi
người: “Toàn là sai sự mục đích cả!”.... Tất cả những điều đó không làm ông Hai
xấu đi trong mắt người đọc mà chỉ càng khiến ông đáng yêu, đáng mến hơn.
Không chỉ vậy, điều đáng quý nhất ở ông Hai chính là tấm
lòng yêu làng tha thiết. Và biểu hiện của tấm lòng ấy cũng thật đặc biệt.
Cái làng đối với người nông dân quan trọng lắm. Nó là ngôi
nhà chung cho cộng đồng, họ mạc. Đời này qua đời.khác, người nông dân gắn bó
với cái làng như máu thịt, ruột rà. Nó là nhà cửa, đất đai, là tổ tiên, là hiện
thân cho đất nước đối với họ. Trước Cách mạng tháng Tám, ông Hai thuộc loại
"khố rách áo ôm", từng bị "bọn hương lí trong làng truất ngôi
trừ ngoại xiêu dạt đi, lang thang hết nơi này đến nơi khác, lần mò vào đến tận
đất Sài Gòn, Chợ Lớn kiếm ăn. Ba chìm bảy nổi mười mấy năm trời mới lại được
trở về quê hương bản quán. Nên ông thấm thía lắm cái cảnh tha hương cầu thực.
Ông yêu cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, một
tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ. Cứ xem cái cách ông Hai náo nức, say mê khoe về
làng mình thì sẽ thấy. Trước Cách mạng tháng Tám, ông khoe cái dinh phần của
viên tổng đốc làng ông: "Chết! Chết, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại
được như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi.". Và mặc dù chẳng họ hàng gì
nhưng ông cứ gọi viên tổng đốc là "cụ tôi" một cách rất hả hê! Sau
Cách mạng, "người ta không còn thấy ông đả động gì đến cái lăng ấy
nữa", vì ông nhặn thức được nó làm khổ mình, làm khổ mọi người, là
kẻ thù cùa cả làng: "Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch,
đập đá, làm phu hồ cho nó. [...] Cái chân ông đi tập tễnh cũng vì cái lăng
ấy" Bây giờ ông khoe làng ông khởi nghĩa, khoe "ông gia nhập phong
trào từ hồi kì còn trong bóng tối", rồi những buối tập quân sự, khoe những
hố, những ụ, những giao thông hào cùa làng ông,... Cũng vì yêu làng quá như thế
mà ông nhất quyết không chịu rời làng đi tản cư. Đến khi buộc phải cùng gia
đình đi tản cư ông buồn khổ lắm, sinh ra hay bực bội, "ít nói, ít cười,
cái mặt lúc nào cũng lầm lầm . Ở nơi tản cư, ông nhớ cái làng của ông, nhớ những
ngày làm việc cùng với anh em: sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ
ra.[...] Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên.". Lúc này, niềm vui
của ông chỉ là hàng ngày đi nghe tin tức thời sự kháng chiến và khoe về cái
làng Chợ Dầu của ông đánh Tây.
Ông lão đang náo nức, "ruột gan ông lão cứ múa cả lên,
vui quá!" vì những tin kháng chiến thì biến cố bất ngờ xảy ra. Một người
đàn bà tản cư vừa cho con bú vừa ngấm nguýt khi nhắc đến làng Dầu. Cô ta cho
biết làng Dầu đã theo giặc chẳng “tinh thần” gì đâu. Ông Hai nhận cái tin ấy
như bị sét đánh ngang tai. Càng yêu làng, hãnh diện tự hào về làng bao nhiêu
thì bây giờ ông Hai lại càng thấy đau đớn, tủi hổ bấy nhiêu. Nhà văn Kim Lân đã
chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắc sảo, tái hiện sinh động trạng
thái tình cảm, hành động của con người khi miêu tả diễn biến tâm trạng và hành
động của nhân vật ông Hai trong biến cố này.
Cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đã làm ông điếng người: "Cổ
ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tường như đến
không thở được. Một lúc lâu ông mới rặng è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ [...]
giọng lạc hẳn đi", "ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi" và nghĩ đến
sự dè bỉu của bà chủ nhà. Ông lão như vừa bị mất một cái gì quý giá, thiêng
liêng lắm. Những câu văn diễn tả tâm trạng thật xúc động: "Nhìn lũ con,
tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian
đấy? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy? Khốn nạn, bằng ấy tuổi
đầu...". Nỗi nhục nhã, mặc cảm phản bội hành hạ ông lão đến khổ sở: ''Chao
ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai
người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta
ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước...". Cả nhà ông Hai
sống trong bầu không khí ảm đạm: "Gian nhà lặng đi, hiu hắt, ánh lửa vàng
nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt lo âu của bà lão. Tiếng thở của ba
đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe như tiếng thở của gian
nhà." ông Hai ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng nơm nớp, bất ổn
trong nỗi tủi nhục ê chề. Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái
chuyện phản bội là "chuyện ấy". Ông tuyệt giao với tất cả mọi người,
"không dám bước chân ra đến ngoài" vì xấu hổ. Và cái chuyện vợ chồng
ông lo nhất cũng đã đến. Bà chủ nhà bóng gió đuổi gia đình ông, chỉ vì họ là
người của làng theo Tây. Gia đình ông Hai ở vào tình thế căng thẳng. Ông Hai
phải đối mặt với tình cảnh khó khăn nhất: "Thật là tuyệt đường sinh sống!
[..] đâu đâu có người Chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Mà cho dẫu vì
chính sách của Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt
mũi nào đi đến đâu.".
Từ chỗ yêu tha thiết cái làng của mình, ông Hai đâm ra thù
làng: "Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là
bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ... Và "nước mắt ông giàn ra". Ông lại nghĩ
đến cảnh sống nô lệ tăm tối, lầm than trước kia. Bao nỗi niềm của ông không
biết giãi bày cùng ai đành trút cả vào những lời trò chuyện cùng đứa con thơ
dại:
Hức kia!
Thầy hỏi con nhé, con là con của ai?
Là con
thầy mấy lị con u.
Thế nhà
con ở đâu?
Nhà ta ở
làng Chợ Dầu.
Thế con
có thích về làng Chợ Dầu không?
Thằng bé
nép đẩu vào ngực bố trả lời khe khẽ:
Có.
Ông Lão
ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏi:
À, thầy
hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?
Thằng bé
giơ tay lên, mạnh bạo và rành
rọt:
ủng hộ
Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
Nước mắt
ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:
ừ đúng
rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.
Những lời đáp của con trẻ cũng là tâm huyết, gan ruột của ông Hai,
một người lấy danh dự của làng quê làm danh dự của chính mình, một người son
sắt một lòng với kháng chiến, với Cụ Hồ. Những lời thốt ra từ miệng con trẻ
như minh oan cho ông, chân thành và thiêng liêng như lời thề đinh ninh
vang lên từ đáy lòng ông:
“Anh em
đồng chí biết cho
bố con ông
Cụ Hồ
trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông.
Cái lòng
bố con ông
là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”
Nhà văn đã nhìn thấy những nét đáng trân trọng bên trong người nông dân
chân lấm tay bùn. Nhân vật ông Hai hiện ra chân thực từ cái tính hay khoe làng,
thích nói về làng bất kể người nghe có thích hay không; chân thực ở đặc điếm
tâm lí vì cộng đồng, vui cái vui của làng, buồn cái buồn của làng và chân thực
ở những diễn biến của trạng thái tâm lí hết sức đặc trưng của một người nông
dân tủi nhục, đau đớn vì cái tin làng mình phản bội. Nếu như trong biến cố ấy
tâm trạng cùa ông Hai đau đớn, tủi cực bao nhiêu thì khi vỡ lẽ ra rằng đó chỉ
là tin đồn không đúng, làng Chợ Dầu của ông không hề theo giặc, sự vui sướng
càng tưng bừng, hả hê bấy nhiêu. Ỏng Hai như người vừa được hồi sinh. Một lần
nữa, những thay đối cùa trạng thái tâm lí lại được khắc hoạ sinh động, tài
tình: "Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm
bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ hấp háy...". Ông khoe khắp nơi:
"Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ Đốt nhẵn![...] Láo! Láo hết! Toàn là sai sự
mục đích cả., "Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ậ. Đốt nhẵn.[... ] Ra láo!
Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!". Đáng lẽ ra ông
phải buồn vì cái tin ấy chứ? Nhưng ông đang tràn ngập trong niềm vui vì thoát
khỏi cái ách "người làng Việt gian" Cái tin ấy xác nhận làng ông vẫn
nhất quyết đứng về phía kháng chiến. Cái tin ấy khiến ông lại được sống như một
người yêu nước, lại có thể tiếp tục sự khoe khoang đáng yêu của mình,... Mâu
thuẫn mà vẫn hết sức hợp lí, điểm này cũng là sự sắc sảo, độc đáo của ngòi bút
miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân.
Người đọc sẽ không thể quên được một ông Hai quá yêu cái làng của
mình như thế. Lúc ông nói thành lời hay khi ông nghĩ, người đọc vẫn nhận thấy
rất rõ đặc điểm ngôn ngữ của vùng quê Bắc Bộ, của một làng Bắc Bộ: "Nắng
này là bỏ mẹ chúng nó", "không đọc thành tiếng cho người khác nghe
nhờ mấy", "Thì vườn", "có bao giờ dám đơn sai",... Đặc
biệt là nhà văn cố ý thể hiện những từ ngữ dùng sai trong lúc quá hưng phấn của
ông Hai. Những từ ngữ "sai sự mục đích cả" là dấu ấn ngôn ngữ của
người nông dân ở thời điểm nhận thức đang chuyển biến, muốn nói cái mới nhưng
từ ngữ chưa hiếu hết. Sự sinh động, chân thực, thú vị của câu chuyện phẩn nào
cũng nhờ vào đặc điểm ngôn ngữ này. Trong tác phẩm, nhà văn cũng thể hiện rõ sự
thông hiểu về lề thói, phong tục của làng quê. Kim Lân đả vận dụng những hiểu
biết đó hết sức khéo léo vào việc xáy dựng tâm lí, hành dộng, ngôn ngữ nhân
vật. Cốt truyện đơn giản, sức nặng lại dồn cả vào mạch diễn biến tâm trạng, vào
lời thoại của nhân vật nên câu chuyện có sức hấp dẫn riêng, ấn tượng riêng, độc
đáo.
Tình yêu làng của ông Hai không đơn giản, hẹp hòi là tình yêu chỉ
riêng đối với nơi ông sinh ra và lớn lên. Ê-ren-bua từng tâm đắc: “Tình yêu
làng xóm trở nên tình yêu quê hương đất nước”. Và bởi thế, tình yêu làng của
ông Hai gắn bó chặt chẽ với tình yêu nước với tinh thần kháng chiến đang lên
cao của cả dân tộc. Đó cũng chính là biểu hiện chung của tình yêu đất nước của
người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.
Trong số rất nhiều những nhân vật nông dân khác, người đọc
khó có thể quên một ông Hai yêu làng quê, yêu đất nước, thuỷ chung với kháng
chiến, với sự nghiệp chung của dân tộc. Một ông Hai thích khoe làng, một ông
Hai sốt sắng nghe tin tức chính trị, một ông Hai tủi nhục, đau đớn khi nghe tin
làng mình theo giặc, một ông Hai vui mừng như trẻ thơ khi biết tin làng mình
không theo giặc,... Ai đó đã một lần thấy nhà vàn Kim Lân, nghe ông nói chuyện
còn thú vị hơn nữa: hình như ta gặp ông đâu đó trong Làng rồi thì phải.
Ông Hai là một nhân vật độc đáo mang nhiều đặc điếm chung
tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp nhưng đồng
thời cũng mang những đặc điểm tính cách rất riêng, rất thú vị. Ông đã trở thành
linh hồn của Làng và thể hiện trọn vẹn tư tưởng của nhà văn và tác phẩm.